Bệnh Newcastle ở gà là một bệnh truyền nhiễm có trên gia cầm nuôi và gia cầm hoang dã. Hiện nay, bệnh này vẫn tồn tại trên toàn thế giới. Mỗi năm, bệnh Newcastle cướp đi sinh mạng của hàng triệu con gà, khiến nhiều trang trại phải tiêu hủy gà bệnh số lượng lớn. Trong bài viết hôm nay, chúng tôi sẽ mang đến cho người chăn nuôi gà những thông tin liên quan đến bệnh này.
Bệnh Newcastle (tên quốc tế Newcastle Disease – ND) hay còn được gọi là bệnh gà rù. Đây là một trong những căn bệnh nguy hiểm và có thể gây ra các thiệt hại nghiêm trọng cho ngành chăn nuôi gia cầm. Bệnh này do virus Newcastle (Newcastle Disease virus: NDV) tấn công vào hệ tiêu hóa và hô hấp của gà. Virus gây bệnh còn có tên gọi khác là Avian Paramyxovirus type 1 gây ra.
Virus Avian Paramyxovirus type 1 có thể gây bệnh trên 240 giống gia cầm khác nhau, trong đó có cả những loài thủy cầm. Con đường truyền bệnh Newcastle ở gà này rất dễ dàng và đa dạng.
Theo các nhà khoa học, phân loại ban đầu của các chủng virus gây bệnh Newcastle chia thành 4 nhóm như sau:
Độc lực cao hướng thần kinh (tên tiếng Anh là neurotropic velogenic)
Độc lực cao hướng cơ quan nội tạng (tên tiếng Anh là viscerotropic velogenic)
Độc lực trung bình (tên tiếng Anh là Mesogenic)
Độc lực nhẹ (tên tiếng Anh là Lentogenic)
Trong đó, 3 nhóm độc lực thuộc cao và trung bình được gọi tắt chung là virus Newcastle độc lực (vNDV).
Những nhóm độc lực cao vNDV là nhóm nguyên nhân bệnh phổ biến ở gia cầm tại các nước châu Á, châu Phi cùng một số quốc gia Bắc và Nam Mỹ. Vật chủ khi mang mầm bệnh có thể lây nhiễm sang các cá thể gà khỏe mạnh thông qua những con đường lây nhiễm đa dạng như sau:
Nguồn ban đầu của bệnh Newcastle ở gà là lây từ những loài động vật hoang dã như chim gà bị nhiễm bệnh.
Các cá thể gà nhiễm bệnh thải virus ra ngoài không khí thông qua đường hô hấp như hít thở, phân thải, hắt hơi và giọt bắn khi vẩy mỏ.
Virus xuất hiện nhiều trong chất độn chuồng.
Các dụng cụ ăn uống, thức ăn, chuồng trại, nước uống cũng là những con đường lây bệnh gián tiếp lý tưởng.
Người đi từ vùng dịch về cũng có thể mang theo virus gây bệnh cho gà.
Biểu hiện bên ngoài của bệnh Newcastle ở gà sẽ tùy vào mức độ nhiễm bệnh, nhóm độc lực của virus, sức khỏe, tuổi đời và miễn dịch của đàn gà. Thời kỳ ủ bệnh thường mất từ 2 đến 15 ngày. Theo quan sát của các chuyên gia, thời gian ủ bệnh phổ biến nhất từ 5 đến 6 ngày.
Tại Việt Nam, bệnh Newcastle ở gà phát triển mạnh mẽ nhất trong mùa đông và giai đoạn chuyển mùa từ đông sang xuân. Đây là thời gian nhiệt độ trong năm thấp nhất, kết hợp cùng độ ẩm không khí giao mùa cao chính là điều kiện thuận lợi để bệnh nhanh chóng trên diện rộng.
Khi gà bị nhiễm bệnh ở thể độc lực nhẹ sẽ có những triệu chứng thường thấy như sau:
Những triệu chứng lâm sàng của hô hấp như khó thở, chảy nước mũi, hắt hơi, ho.
Bộ phận đầu, cổ, mắt gà sưng phù.
Gà bị tiêu chảy và phân có màu trắng hoặc trắng xanh.
Gà có dấu hiệu bỏ ăn, giảm ăn, mệt mỏi và lười vận động.
Khi nhiễm bệnh Newcastle ở gà ở thể độc lực cao, ngoài các triệu chứng trên, chúng sẽ có những biểu hiện nguy hiểm hơn như sau:
Suy nhược thần kinh: gà run rẩy, không xác định được phương hướng, quay tròn, sã cánh, đi đứng không vững, hay mổ lung tung, đầu và cổ ngoẹo về một phía. Sau khi nặng hơn gà có thể bị liệt chân hoặc liệt toàn thân.
Suy nhược cơ quan: gà mái giảm đẻ trứng ra non, vỏ mỏng, có màu sắc khác lạ, có chứa dịch nhờn và dễ vỡ.
Gà bị bệnh nặng có thể dẫn đến tử vong
Tử vong mà không triệu chứng.
Theo các nhà khoa học, khi giải phẫu cơ thể gà bị bệnh sẽ thấy những đặc điểm sau:
Túi khí là những màng mỏng được tạo thành từ thành phế quản chính và phế quản nhánh bị phình ra, bị viêm nặng, thành túi sưng dày và đục.
Khí quản của gà bị xuất huyết và viêm.
Dạ dày tuyến, hạch manh tràng, ruột của gà có các ổ hoại tử.
Dạ dày tuyến của gà xuất hiện theo hiện tượng xuất huyết, tập trung nhiều tại lỗ đổ ra của tuyến tiêu hóa.
Ống dẫn trứng của gà bị phù và xuất huyết hoặc tiêu giảm.
Gà mẹ lây bệnh sang gà con thông qua quá trình đẻ, ấp và nuôi con.
Bệnh Newcastle ở gà là một loại bệnh truyền nhiễm có tốc độ lây lan trong đàn cao và có thể đạt đến 100% nhiễm bệnh. Khi gà đã phát bệnh, quá trình diễn biến của bệnh rất nhanh, nguy hiểm và tỷ lệ tử vong rất cao. Gà khi nhiễm vNDV có thể chạm ngưỡng tử vong đến 100% ở đàn gà nhỏ.
Đối với gà đẻ trứng, sản lượng trứng sẽ giảm đi rõ rệt trong quá trình nhiễm bệnh hoặc đang hồi phục. Chất lượng trứng sẽ đi xuống với các biểu hiện như hình dạng khác lạ, trứng non, có màu lạ, bề mặt vỏ sần và vỏ dễ vỡ.
Khi được chữa trị khỏi, gà vẫn sẽ có những di chứng đi kèm như trọng lượng nhẹ đi, mắt phù nề và có thể dẫn đến vĩnh viễn, gà lờ đờ, không được nhanh nhẹn như trước.
Hiện nay, bệnh Newcastle ở gà chưa có vacxin điều trị. Do vậy, công tác phòng bệnh cần được người chăn nuôi thực hiện phổ biến hơn cả.
Khi chủ trang trại nhận thấy gà của mình xuất hiện những dấu hiệu bị bệnh cần báo ngay đến cơ quan thú y địa phương để có các biện pháp xử lý kịp thời. Tiến hành tách riêng các cá thể gà nhiễm bệnh sang khu vực tách biệt khỏi trang trại chăn nuôi. Theo dõi và chăm sóc đàn gà bị nhiễm bệnh và đàn gà con khỏe mạnh để kịp thời đưa ra biện pháp xử lý nếu thấy quy mô bệnh tăng lên.
Chủ trang trại có thể tiến hành chẩn đoán nhóm độc lực gà của mình mắc phải thông qua mẫu phân lập từ mô hầu họng hoặc âm đạo của cá thể bị bệnh. Virus được cấy vào trứng gà có phôi SPF (Specific Pathogen Free - không chứa thành phần gây bệnh đặc biệt) từ 9 đến khi gà 11 ngày tuổi.
Với cách này, bạn có thể có biện pháp tiêu hủy nếu gà nhiễm độc lực mạnh để tránh lây lan rộng. Còn nếu gà nhiễm độc lực nhẹ, sẽ có cách chữa trị phù hợp, bạn cần theo dõi, chăm sóc gà cẩn thận. Với những cá thể gà con, dưới 20 ngày tuổi bị nhiễm bệnh nhưng chưa tiêm vacxin thì nên tiêu hủy ngay để tránh nguy cơ phát triển thành đại dịch.
Trên thế giới và Việt Nam hiện nay, chủ yếu dùng vacxin để phòng bệnh Newcastle. Vacxin được sử dụng cho gà ở các độ tuổi như sau:
Từ 3 - 4 ngày tuổi có thể nhỏ mắt, mũi, miệng bằng vacxin Lasota hoặc ND-IB lần 1. Liều lượng sử dụng tuân theo sự hướng dẫn của bác sĩ thú y hoặc nhà sản xuất.
Từ 18 - 24 ngày tuổi cho gà uống Lasota hoặc ND-IB theo liều lượng được chỉ định.
Từ 35 - 38 ngày tuổi nên sử dụng vaxin Newcastle H1 hoặc Clone 45 cho gà
Khi gà đạt 90 ngày tuổi và khoảng 2 tuần trước khi đẻ trứng, tiến hành tiêm lại vacxin Newcastle H1 hoặc Clone 45.
Chuồng trại là nơi có khả năng ủ và truyền mầm bệnh rất cao. Vì vậy, để tránh bệnh Newcastle ở gà, công tác vệ sinh chuồng trại là vô cùng quan trọng. Mỗi khi kết thúc một đàn hoặc xử lý xong lứa gà bị bệnh, bạn cần thực hiện những hoạt động sau:
Dọn sạch phân, rác thải và chất độn chuồng của đàn gà cũ.
Rửa sạch bề mặt nền và tường chuồng gà bằng nước sạch.
Sử dụng xà phòng cọ rửa bề mặt rồi rửa sạch bằng nước.
Phun thuốc khử khuẩn toàn bộ khu vực chuồng và xung quanh.
Để chuồng được nghỉ trong vòng 2 tuần trước khi đưa đàn mới vào
Thức ăn cung cấp cho gà cần đảm bảo đủ và cân bằng dinh dưỡng. Khi có chế độ ăn phù hợp sẽ giúp hệ tiêu hóa của gà khỏe mạnh, đủ dưỡng chất giúp phát triển cơ thể toàn diện. Thức ăn của gà nên cho lượng vừa đủ ở mỗi bữa,tránh để thức ăn trong thời gian dài, tạo cơ hội cho chim, chuột hoang dã hay nấm mốc, vi khuẩn tấn công.
Nước uống cho gà có thể bổ sung thêm vitamin và được thay liên tục. Các dụng cụ ăn uống của gà cần được cọ rửa mỗi ngày và sát khuẩn định kỳ.
Thông qua bài viết này của SV388, chúng tôi đã tổng hợp đến bạn đọc toàn bộ thông tin về căn bệnh Newcastle ở gà. Hy vọng rằng, bạn sẽ có thêm kiến thức và kỹ năng để phòng chống và chăm sóc đàn gà của mình thật tốt.